Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Harvard Yenching Institute có thuộc ĐH Harvard?
TS Trần Vinh Dự, người từng theo học và tốt nghiệp ĐH Texas ở Austin (Mỹ), giải thích khái niệm học giả Harvard Yenching Institute và nó có liên quan gì Trung Quốc không.
Ngày 8/4, khái niệm học giả Harvard Yenching Institute (HYI) trở thành chủ đề nóng trên mạng xã hội, cũng như trong giới học thuật. Nó là gì? "Visiting scholar" (học giả) khác "post-doc" (nghiên cứu sau tiến sĩ) ở chỗ nào? Chương trình này có liên quan Trung Quốc không?
TS Trần Vinh Dự (thứ hai từ trái sang) theo học chương trình tiến sĩ tại UT-Austin theo học bổng do HYI cấp. Ảnh: T.V.D.
Từng du học bằng học bổng của HYI
Cách đây 21 năm, tôi là giảng viên khoa Kinh tế, ĐH Quốc gia Hà Nội. Thời điểm này, tôi đã thi xong TOEFL (607 điểm) và GRE (2040 điểm), chuẩn bị tìm trường nộp hồ sơ học tiến sĩ (Ph.D.) ở Mỹ.
Những người từng có ý định du học đều biết chi phí đắt thế nào. Lúc đó, tôi chẳng có xu nào cả. Việc xin đi du học hoàn toàn dựa vào kiếm học bổng.
Kiếm học bổng chủ yếu có hai nguồn: Thứ nhất, xin đi làm ở trường dưới dạng trợ giảng hoặc trợ lý nghiên cứu; thứ hai, xin chỗ nào họ cho mình tiền.
Lúc đó, kiếm mãi không ra lựa chọn số hai, tôi chỉ dựa vào lựa chọn thứ nhất, xin làm việc trực tiếp những trường mình nộp hồ sơ. Dĩ nhiên, tôi hiểu xin như thế, cơ hội được các trường này nhận sẽ ít hơn. Nếu có chỗ khác cho tiền sẵn, việc xin học dễ hơn.
Một hôm đi làm, tôi thấy thông báo dán trên tường về học bổng đào tạo sau đại học của Harvard Yenching Institute. Thấy có học bổng, tôi nghiên cứu HYI là gì để nộp đơn.
Mấy tháng sau khi nộp đơn, tôi nhận được thông tin từ HYI, thông báo thời gian lên văn phòng ĐH Quốc gia Hà Nội, gặp đại diện của HYI phỏng vấn trực tiếp.
Lúc đó, tôi rất hồi hộp. May mắn, tôi có dịp gặp GS Ngô Vĩnh Long hàng tuần, được ông dạy bảo nhiều, bao gồm cả chuẩn bị về mặt tinh thần cho các cuộc phỏng vấn kiểu này.
Người phỏng vấn tôi là giám đốc chương trình học bổng của HYI, một người Mỹ da trắng đứng tuổi. Ông ấy phỏng vấn tôi trong khoảng một giờ. Câu chuyện khá lôi cuốn nên tôi không có cảm giác đó là một cuộc phỏng vấn. Hết giờ, ông bắt tay tôi và nói sẽ có kết luận sau mấy tháng.
Khoảng đầu tháng 4/2001, tôi nhận được thư của 5 trong số 6 trường tôi nộp hồ sơ. Bốn trường đồng ý cho học và cho làm thêm để có tiền. Một trường (ĐH Rochester) từ chối. Tôi không hào hứng lắm với 4 trường đồng ý nhận mình. ĐH Texas ở Austin (UT-Austin) chưa trả lời mà thời gian khá trễ, tôi nghĩ khả năng trượt lớn.
Đúng lúc đó, tôi lại nhận được thư chúc mừng từ HYI. Từ chỗ có HYI cấp học bổng, qua sự hỗ trợ của TS Nguyễn Quốc Toàn (lúc đó đang là nghiên cứu sinh ở ĐH New York), tôi liên hệ với UT-Austin một cách đầy tự tin. Mấy ngày sau, trường gửi thư đồng ý nhận tôi vào học. Tháng 8/2001, tôi lên đường sang Mỹ du học.
Viện Harvard Yenching nằm trong khuôn viên ĐH Harvard và 3 trong số 9 thành viên hội đồng quản trị của viện là đại diện từ Harvard. Ảnh: The Harvard Gazette.
Harvard Yenching Institute - Viện Harvard Yenching - có khuôn viên tọa lạc trong ĐH Harvard. Giám đốc đương nhiệm là GS Elizabeth J. Perry, GS ngành Chính trị của ĐH Harvard.
Hội đồng Quản trị của HYI gồm 9 thành viên, với 3 người đại diện ĐH Harvard, 3 người đại diện của Hội đồng vì Giáo dục sau phổ thông Công Giáo tại châu Á (một tổ chức phi chính phủ ở New York) và 3 thành viên độc lập có hiểu biết sâu rộng về châu Á.
Harvard Yenching không phải là một đơn vị do ĐH Harvard sở hữu. HYI có thể hiểu là một tổ chức thiện nguyện hoạt động độc lập, có ngân sách độc lập. Nhưng HYI là một phần không tách rời của cộng đồng Harvard. Hiểu nôm na, HYI là một dự án độc lập mà Harvard có tham gia với tư cách thành viên sáng lập.
Vậy HYI làm gì? HYI không phải là một khoa hay là một viện đào tạo. HYI không có cấp bằng. Trong lịch sử, HYI làm nhiều việc như hỗ trợ thành lập Khoa nghiên cứu về ngôn ngữ và văn minh Á Đông của ĐH Harvard, thư viện Harvard Yenching của ĐH Harvard, tạp chí nghiên cứu Harvard Journal of Asiatic Studies... hỗ trợ trực tiếp cho nhiều trường ĐH ở Trung Quốc và Ấn Độ.
Tuy nhiên, từ những năm 50 của thế kỷ XX trở lại đây, HYI tập trung chính vào việc tài trợ học bổng cho các nghiên cứu sinh tiến sĩ và các giáo viên trẻ thuộc các trường đại học hàng đầu ở Đông và Đông Nam Á ra nước ngoài nghiên cứu về khoa học xã hội và nhân văn.
Tới nay, hơn 1.200 giảng viên và hơn 600 nghiên cứu sinh đã được HYI hỗ trợ, trong đó, 400 tiến sĩ và thạc sĩ đã tốt nghiệp dưới sự tài trợ của HYI.
Tôi không biết chính xác có bao nhiêu trong số 400 này là tiến sĩ. Nhưng tôi là một người trong số đó. Một sản phẩm được đào tạo ra dưới sự chi trả của HYI. Không có HYI thì không có tôi bây giờ.
Cần nói rõ, với các chương trình tài trợ này, HYI không đào tạo mà là đơn vị cấp học bổng/ngân sách. Những người nhận tài trợ sẽ học tập và làm việc tại các cơ sở đào tạo khác nhau.
Ví dụ, tôi học và tốt nghiệp từ UT-Austin, nhưng dưới sự tài trợ của HYI. Vì thế, việc một học giả đi theo diện visting scholar do HYI tài trợ và làm việc trong thời gian này ở ĐH Harvard ghi vào hồ sơ là visiting scholar của Harvard là chuyện bình thường.
Website của HYI cũng ghi rất rõ "chương trình này trao cơ hội cho các giảng viên trẻ trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn có 10 tháng nghiên cứu độc lập tại ĐH Harvard".
HYI lấy tiền đâu ra, có liên quan Trung Quốc không?
HYI là một quỹ tín thác công ích được thành lập từ năm 1928 với nguồn tài trợ thuần túy từ tài sản của một người đã mất năm 1914 - nhà khoa học Charles Martin Hall.
Ông Hall là nhà khoa học, nhà sáng chế, đồng thời là "đại gia" thời đó với tài sản có được nhờ thành lập công ty luyện kim Alcoa. Công ty này hiện giờ vẫn niêm yết trên sàn chứng khoán Mỹ.
Ông Hall mất lúc còn rất trẻ (51 tuổi) và không có vợ con thừa kế. Tài sản của ông để lại theo di chúc được dùng cho mục đích thiện nguyện. Harvard Yenching được thành lập dựa hoàn toàn trên nguồn ngân sách đến từ khối tài sản này.
Nhưng sao lại là châu Á? Đặc biệt là có chữ Yên Kinh (Yenching) nghe có vẻ liên quan Trung Quốc? Ông Charles M. Hall dĩ nhiên không phải người châu Á, càng không phải người Trung Quốc và cũng không làm ăn gì ở Trung Quốc. Viện Harvard Yenching được thành lập sau khi ông qua đời 14 năm.
Chữ Yenching đến từ một người da trắng khác - nhà truyền giáo, nhà giáo dục, TS John Leighton Stuart (1876-1962). Ông Stuart dành phần lớn phần đời ở Trung Quốc hoạt động truyền đạo Công giáo và làm giáo dục. Có thời, ông còn là Đại sứ của Mỹ tại Trung Quốc (1946 đến giai đoạn nội chiến giữa ĐCS và Quốc dân đảng). Stuart được coi là tượng đài trong quan hệ Mỹ - Trung trong giai đoạn lịch sử đó.
Ông cũng là người sáng lập ĐH Yên Kinh (Yenching University), và là chất xúc tác để hình thành Harvard Yenching Institute tại ĐH Harvard năm 1928. Chính HYI trong giai đoạn đầu cũng tham gia hỗ trợ trực tiếp ĐH Yên Kinh và 5 trường đại học khác ở Trung Quốc và một trường ở Ấn Độ.
Như vậy, dù có chữ Yên Kinh và có nguồn gốc lịch sử liên quan đến quan hệ Mỹ - Trung từ thời đầu thế kỷ XX, HYI hoàn toàn là một quỹ tín thác của Mỹ, hoạt động hoàn toàn từ ngân sách đóng góp dựa trên tài sản của nhà khoa học Charles Martin Hall để lại.
Tôn chỉ mà HYI theo đó vận hành là nghiên cứu và hỗ trợ nghiên cứu, xuất bản về văn hóa Trung Hoa, châu Á đại lục, Nhật, Thổ Nhĩ Kỳ, các nước Balkan ở châu Âu bằng cách sáng lập, phát triển, hỗ trợ, duy trì các tổ chức giáo dục hoặc hợp tác và liên kết với các tổ chức giáo dục khác.
Nói cách khác, HYI không hoạt động bằng tiền của Trung Quốc và cũng không hoạt động theo nghị trình của Trung Quốc hay nói cách khác không "thân Trung Quốc" như một số người nhầm tưởng
Visiting scholars khác với postdoc hay research fellows chỗ nào?
Mọi người cũng tranh luận quanh các khái niệm như visiting scholars, postdoc và research fellows. Cái nào hơn, khác nhau chỗ nào, có sai không khi dùng từ này thay từ kia.
Câu trả lời ngắn gọn là visiting scholars, postdocs hay research fellows chẳng khác gì nhau ngoài vấn đề đối tượng và thời gian. Cả 3 dạng này đều theo kiểu một đơn vị đứng ra cấp ngân quỹ để một cá nhân qua trường đại học hoặc tổ chức nghiên cứu khác để nghiên cứu hoặc làm việc trong thời gian nhất định.
Lưu ý, cả 3 đều không phải chương trình học, và vì thế, đều không cấp bằng. Các học giả đi theo các chương trình này đều có thời gian tự do để nghiên cứu, phối hợp nghiên cứu, hoàn thành các công trình nghiên cứu đang phát triển của mình, tham dự các hội thảo hội nghị khoa học, thiết lập mạng lưới quan hệ với các nhà khoa học khác...
Khác biệt cơ bản giữa các chương trình này là đối tượng và thời gian của chương trình. Thí dụ, postdoc (nghiên cứu sau tiến sĩ) dành cho những người đã tốt nghiệp tiến sĩ trong một thời gian nhất định (thường là dưới 5 năm sau khi tốt nghiệp) và các chương trình postdoc thường kéo dài 2 năm.
Visiting scholars hay research fellows áp dụng cho các học giả theo nghĩa rộng hơn. Chương trình thường ngắn hơn, ví dụ 10 tháng theo chương trình của HYI. Research fellowships có thể rất ngắn (6 tháng) hoặc dài hơn. Ví dụ, Humboldt research fellowship cho từ 6 tháng đến 2 năm
Nói nôm na, những người đi theo các chương trình này thường vì thiếu một số thứ gì đó. Thí dụ, họ thiếu cơ hội cọ xát, làm việc với các chuyên gia hàng đầu trong ngành nghiên cứu của mình, thiếu thiết bị, máy móc thí nghiệm hoặc thiếu tiền để làm nghiên cứu.
Thời mới tốt nghiệp Ph.D. từ UT-Austin, tôi cũng được trao cơ hội làm postdoc 2 năm ở ĐH Southern California (USC - trường top đầu nước Mỹ).
Tuy nhiên, lương làm postdoc thấp. Hơn nữa, sau đó, tôi có công việc ngay nên không có lý do gì ở đó thêm 2 năm nên không nhận.
TS Trần Vinh Dự nhận bằng cử nhân Kinh tế & Toán học từ ĐH Quốc gia Hà Nội. Ông học tiến sĩ tại ĐH Texas ở Austin (Mỹ).
Ông từng là Chủ tịch trường CĐ Nghề Việt Mỹ (VATC), Chủ tịch Trung tâm Quốc tế của ĐH Broward College (Mỹ) tại Việt Nam.
Hiện tại, TS Trần Vinh Dự là Phó tổng giám đốc, lãnh đạo dịch vụ Chiến lược và Giao dịch Tài chính (SaT), Công ty Cổ phần Tư vấn EY Việt Nam.
Harvard công bố số sinh viên được chấp nhận trong kỳ nộp đơn sớm Theo thông báo của ĐH Harvard, có 747 người trong số hơn 10.000 người nộp đơn sớm được trường ĐH này chấp nhận (chiếm tỷ lệ 7,4%). William R. Fitzsimmons, Trưởng phòng tuyển sinh và hỗ trợ tài chính của ĐH Harvard cho biết: "Những sinh viên xuất sắc được chấp nhận đến từ mọi nơi trên nước Mỹ và thế giới. Họ...
Được thành lập vào năm 1636 bởi Cơ quan Lập pháp Thuộc địa Vịnh Massachusetts và không lâu sau đó đặt theo tên của John Harvard - người đã hiến tặng của cải cho trường, Harvard là cơ sở học tập bậc cao lâu đời nhất Hoa Kỳ.
Mặc dù chưa bao giờ có mối quan hệ chính thức với bất kỳ giáo phái nào, Trường Đại học Harvard (
, sau này là trường giáo dục bậc đại học của Viện Đại học Harvard) trong thời kỳ đầu chủ yếu đào tạo các mục sư
thuộc hệ phái Tự trị Giáo đoàn. Chương trình học và thành phần sinh viên của trường dần dần trở nên có tính chất thế tục trong thế kỷ 18, và đến thế kỷ 19 thì Harvard đã nổi lên như một cơ sở văn hóa chủ chốt của giới tinh hoa vùng Boston.
, Charles W. Eliot trong nhiệm kỳ viện trưởng kéo dài nhiều năm của mình (từ 1869 đến 1909) đã chuyển đổi
này và các trường chuyên nghiệp liên kết với nó thành một
nghiên cứu hiện đại. Harvard là thành viên sáng lập
James Bryant Conant lãnh đạo viện đại học này trong suốt thời kỳ
, và sau chiến tranh bắt đầu cải cách
và mở rộng việc tuyển sinh. Trường Đại học Harvard trở thành cơ sở giáo dục dành cho cả nam lẫn nữ vào năm 1977 khi nó sáp nhập với Trường Đại học Radcliffe.
Viện Đại học Harvard được tổ chức thành 11 đơn vị học thuật - 10
và Viện Nghiên cứu Cao cấp Radcliffe - với các khuôn viên nằm rải rác khắp vùng đô thị Boston:
khuôn viên chính rộng 209 mẫu Anh (85 ha) nằm ở thành phố Cambridge, cách Boston chừng 3 dặm (4,8 km) về phía tây bắc; Trường Kinh doanh và các cơ sở thể thao, bao gồm Sân vận động Harvard, nằm bên kia sông Charles ở khu Allston của Boston; còn Trường Y khoa, Trường Nha khoa, và Trường Y tế Công cộng thì nằm ở Khu Y khoa Longwood.
Trong số các tổng thống Hoa Kỳ, có tám người là cựu sinh viên Harvard; chừng 150 người được trao giải Nobel là sinh viên, giảng viên, hay nhân viên của viện đại học này. Ngoài ra, có 62 tỉ phú hiện đang còn sống và 335 Học giả Rhodes, hầu hết sống ở Hoa Kỳ, là cựu sinh viên Harvard.
Thư viện Viện Đại học Harvard cũng là thư viện đại học lớn nhất ở Hoa Kỳ.
Tính đến tháng 6 năm 2013, tổng số tiền hiến tặng mà Harvard có được là 32,3 tỉ đô-la, lớn hơn ở bất cứ cơ sở học thuật nào trên thế giới.
Bức phù điêu Trường Đại học Harvard của Paul Revere, năm 1767.
Harvard được thành lập vào năm 1636 theo sau cuộc bỏ phiếu của Cơ quan Lập pháp vùng Thuộc địa Vịnh Massachusetts. Ban đầu được gọi là
". Năm 1638, trường đại học này trở thành nơi có chiếc máy in đầu tiên được biết là có mặt ở Bắc Mỹ, do con tàu
Năm 1639, trường được đổi tên thành
(1607-1638), một cựu sinh viên của
, người đã hiến tặng tài sản cho trường. John Harvard khi mất đã để lại cho trường 779 bảng Anh (một nửa gia sản của ông) và chừng 400 cuốn sách.
Trong những năm đầu của mình, Trường Đại học Harvard đã đào tạo nhiều mục sư
Chương trình học của trường dựa theo mô hình viện đại học Anh - nhiều nhà lãnh đạo ở vùng thuộc địa này từng theo học ở Viện Đại học Cambridge - với các môn học cổ điển nhưng làm cho phù hợp với triết lý Thanh giáo thịnh hành lúc bấy giờ. Mặc dù chưa bao giờ thuộc bất kỳ giáo phái nào, nhiều sinh viên tốt nghiệp từ Harvard ra đã trở thành mục sư cho các nhà thờ theo phái Giáo đoàn Tự trị và phái Nhất thể ở khắp vùng
Một tập sách giới thiệu, xuất bản vào năm 1643, đã mô tả việc thành lập trường đại học này như là để đáp ứng lại mong muốn "thúc đẩy và làm sống mãi sự học, nếu không thì sợ rằng sẽ để lại những mục sư thất học cho nhà thờ".
Mục sư hàng đầu Boston bấy giờ là Increase Mather đã giữ chức hiệu trưởng từ năm 1685 đến 1701. Năm 1708, John Leverett trở thành hiệu trưởng đầu tiên không phải là người thuộc giới tăng lữ; đây là bước đánh dấu sự chuyển mình của Trường Đại học Harvard khiến nó trở nên độc lập về mặt trí thức khỏi ảnh hưởng của Thanh giáo.
Trong suốt thế kỷ 18, những ý tưởng của
về sức mạnh của lý tính và ý chí tự do trở nên phổ biến trong giới mục sư theo Giáo đoàn Tự trị, khiến họ và giáo đoàn của họ ở trong thế căng thẳng với những nhóm theo
Khi Giáo sư Thần học David Tappan qua đời vào năm 1803 và viện trưởng Harvard
Joseph Willard qua đời một năm sau đó, năm 1804, một cuộc đấu tranh đã nỗ ra trong quá trình tìm người thay thế. Henry Ware được chọn vào vị trí giáo sư thần học vào năm 1805, và Samuel Webber - một người theo khuynh hướng tự do - được chỉ định làm viện trưởng hai năm sau đó, đánh dấu sự thay đổi từ thời kỳ những ý tưởng của chủ nghĩa truyền thống là chủ đạo ở Harvard sang thời kỳ những ý tưởng của chủ nghĩa tự do theo lối của Jacobus Arminius.
Năm 1846, những bài giảng về lịch sử tự nhiên của Louis Agassiz được chào đón nồng nhiệt ở New York lẫn trong khuôn viên Trường Đại học Harvard. Cách tiếp cận của Agassiz duy tâm theo một cách hoàn toàn khác và đã đặt cơ sở cho "sự tham gia vào Bản thể Thần tính" của người Mỹ và khả năng hiểu "những hiện thể tri thức". Cách nhìn của Agassiz về
kết hợp quan sát với trực giác và giả định rằng người ta có thể nắm bắt được "kế hoạch thần thánh" trong tất cả các hiện tượng. Quan điểm lưỡng nguyên về
này phù hợp với tư tưởng của chủ nghĩa hiện thực mang tính cảm quan kinh nghiệm bắt nguồn từ hai triết gia
Thomas Reid và Dugald Stewart, người có tác phẩm được đưa vào chương trình học của Harvard vào thời ấy.
Charles W. Eliot, làm viện trưởng giai đoạn 1869–1909, đã loại trừ khỏi
trong khi cho phép sinh viên tự chủ động. Mặc dù Eliot là nhân vật chủ chốt nhất trong việc thế tục hóa nền giáo dục đại học Hoa Kỳ, ông hành động không phải vì mong muốn thế tục hóa giáo dục mà vì những niềm tin theo trường phái Nhất thể Tiên nghiệm (Transcendentalist Unitarian). Bắt nguồn từ William Ellery Channing và Ralph Waldo Emerson, những niềm tin này tập trung vào phẩm cách và giá trị của bản chất con người, quyền và khả năng của mỗi người trong việc tiếp nhận sự thật, và thần tính nằm trong mỗi người.
Trong suốt thế kỷ 20, danh tiếng quốc tế của Harvard gia tăng khi những khoản tiền hiến tặng nhận được gia tăng và các giáo sư xuất sắc mở rộng phạm vi ảnh hưởng của viện đại học. Số sinh viên theo học cũng tăng lên khi các
mới được thiết lập và ngôi trường đại học dành cho việc giáo dục sinh viên bậc đại học được mở rộng. Trường Đại học Radcliffe, được thành lập vào năm 1879 như là một trường chị em với Trường Đại học Harvard, trở thành một trong những trường hàng đầu dành cho nữ giới ở Hoa Kỳ.
Harvard trở thành thành viên sáng lập Hiệp hội Viện Đại học Bắc Mỹ vào năm 1900.
James Bryant Conant, giữ chức viện trưởng từ năm 1933 đến 1953, đã tạo sinh lực mới cho hoạt động học thuật sáng tạo và bảo đảm là nó có vị trí hàng đầu trong các cơ sở nghiên cứu. Conant xem giáo dục đại học như là nơi cung cấp cơ hội cho những người có tài thay vì là quyền của những người giàu, từ đó ông thay đổi các chương trình để nhận diện, thu hút, và hỗ trợ những người trẻ có tài. Năm 1943, ông yêu cầu tập thể giảng viên đưa ra lời phát biểu dứt khoát về việc giáo dục tổng quát phải như thế nào, cả ở bậc trung học lẫn đại học. Bản "Báo cáo" (Report) nhận được, xuất bản vào năm 1945, là một trong những tuyên ngôn có nhiều ảnh hưởng nhất trong lịch sử giáo dục Hoa Kỳ thế kỷ 20.
Drew Gilpin Faust, giữ chức viện trưởng từ năm 2007.
Trong giai đoạn 1945-1960, chính sách tuyển sinh được mở rộng để thu hút sinh viên từ nhiều hoàn cảnh khác nhau. Trường dành cho sinh viên bậc đại học nay thu hút sinh viên thuộc tầng lớp trung lưu từ các trường công lập, chứ không phải chỉ chủ yếu thu hút sinh viên từ một số trường dự bị đại học ở New England; có nhiều sinh viên
hơn được nhận, dù vẫn có ít sinh viên da đen, Hispanic, hay Á châu.
Sinh viên nữ vẫn học riêng ở Radcliffe, mặc dù ngày càng có nhiều người lấy các lớp học ở Harvard. Ngoài ra, thành phần sinh viên bậc đại học của Harvard vẫn chủ yếu là nam giới, cứ khoảng bốn nam sinh theo học Trường Đại học Harvard thì có một nữ sinh theo học Radcliffe. Theo sau việc Harvard và Radcliffe bắt đầu tuyển sinh chung vào năm 1977, thành phần nữ sinh viên bậc đại học tăng đều, phản ánh xu hướng chung của giáo dục đại học Hoa Kỳ. Các trường sau đại học của Harvard, vốn nhận sinh viên nữ và những nhóm sinh viên khác với số lượng lớn hơn, cũng đã trở nên có thành phần sinh viên đa dạng hơn trong thời kỳ sau
. Năm 1999, Trường Đại học Radcliffe chính thức sáp nhập vào Viện Đại học Harvard và trở thành Viện Nghiên cứu Cao cấp Radcliffe.
Drew Gilpin Faust, Hiệu trưởng Trường Đại học Radcliffe, trở thành nữ viện trưởng đầu tiên của Harvard vào năm 2007. Bà được bổ nhiệm sau khi vị tiền nhiệm là Lawrence Summers từ chức vào năm 2006.
Tòa nhà Littauer, Trường Quản lý Nhà nước John F. Kennedy.
Ngoài ra còn có Viện Nghiên cứu Cao cấp Radcliffe (Radcliffe Institute for Advanced Study).
Một tác phẩm điêu khắc của Henry Moore gần Thư viện Lamont.
Hệ thống Thư viện Viện Đại học Harvard, trung tâm là Thư viện Widener ở khu Harvard Yard, có hơn 80 thư viện riêng lẻ chứa hơn 15 triệu tài liệu.
Theo Hiệp hội Thư viện Hoa Kỳ thì đây là thư viện đại học lớn nhất Hoa Kỳ và là một trong những thư viện lớn nhất thế giới.
Thư viện Khoa học Cabot, Thư viện Lamont, và Thư viện Widener là ba trong số các thư viện được sinh viên bậc đại học ưa thích nhất do dễ tiếp cận và ở vào vị trí thuận lợi. Trong hệ thống thư viện của Harvard có những sách hiếm, bản thảo, và các bộ sưu tập đặc biệt;
Thư viện Houghton, Thư viện Lịch sử Phụ nữ Arthur và Elizabeth Schesinger, và Văn khố Viện Đại học Harvard là nơi chủ yếu lưu giữ các tài liệu quý hiếm ít đâu có. Bộ sưu tập tài liệu ngôn ngữ Đông Á lớn nhất bên ngoài
được lưu trữ tại Thư viện Harvard-Yenching.
Viện Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Harvard
nghệ thuật, văn hóa, và khoa học. Hệ thống Viện Bảo tàng Nghệ thuật Harvard có ba viện bảo tàng. Viện Bảo tàng Arthur M. Sackler có các bộ sưu tập nghệ thuật cổ, châu Á, Hồi giáo, và Ấn Đô thời kỳ sau; Viện Bảo tàng Busch-Reisinger trưng bày nghệ thuật Trung Âu và Bắc Âu; còn Viện Bảo tàng Fogg thì trưng bày nghệ thuật Tây phương từ thời Trung cổ đến thời hiện tại, nhấn mạnh đến nghệ thuật Ý thời kỳ đầu Phục hưng, nghệ thuật Anh thời
, và nghệ thuật Pháp thế kỷ 19. Viện Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Harvard bao gồm Viện Bảo tàng Khoáng chất Harvard, Viện Bảo tàng Thực vật Harvard, và Viện Bảo tàng Động vật Đối chiếu. Những viện bảo tàng khác bao gồm Trung tâm Nghệ thuật Thị giác Carpenter, do Le Corbusier thiết kế, Viện Bảo tàng Khảo cổ và Nhân học Peabody chuyên về lịch sử văn hóa và văn minh
, và Viện Bảo tàng Semitic trưng bày các hiện vật khai quật được ở Trung Đông.