Thực trạng môi trường biển Việt Nam hiện nay đang có những dấu hiệu bị ô nhiễm cũng như suy thoái đáng lên án. Do đó đã có nhiều tổ chức, cá nhân đang triển khai thực hiện nhiều biện pháp khác nhau để nhằm giảm thiểu tối đa tình trạng này. Điển hình là biện pháp tuyên truyền luôn được đặt lên trên hàng đầu. Trong bài viết sau đây, chúng tôi xin đề cập cũng như phân tích rõ thực trạng môi trường biển Việt Nam hiện nay. Cùng tham khảo nhé!
Nồng độ các chất ô nhiễm đứng ngưỡng báo động
Môi trường vùng nước ven biển ô nhiễm kẽm, dầu và chất thải sinh hoạt. Ngoài ra còn có những chất rắn lơ lửng như NH4, NO3, Si và Po4 cũng rất đáng lo ngại. Chất lượng của trầm tích đáy biển ven bờ và nơi cư trú của nhiều loại thủy – hải sản cũng bị ô nhiễm nhiều.
Hàm lượng hóa chất bảo vệ thực vật của chủng anđrin, enđrin ở trong những mẫu sinh vật đáy vùng cửa sông ven biển phía Bắc đều cao hơn mức giới hạn cho phép. Đa dạng sinh học động vật ven biển miền Bắc, thực vật nổi miền Trung suy giảm rõ rệt.
Ngoài ra lượng hóa chất bảo vệ thực vật tồn lưu ở trong cơ thể loài thân mềm hai mảnh được xác định là cao nhất ở Sầm Sơn, cửa Bà Lạt với con số từ 11.14 – 11.83 mg/kg thịt ngao. Còn thấp nhất là ở Trà Cổ 1.54mg/kg.
Thủy triều đỏ cũng xuất hiện tại nước ta từ tháng 6 cho đến trung tuần tháng 7 âm lịch ở vùng biển Nam Trung Bộ. Phổ biến nhất là Ninh Thuận, Khánh Hòa và Bình Thuận. Ngoài ra thủy triều đỏ còn xuất hiện nhiều ở Nam Trung Bộ với khoảng hơn 30km bãi biển bắt đầu từ Cà Na cho đến Long Hương vẫn nhầy nhụa bột báng có màu xám đen dày đến cả tấc phối trộn cùng xác chết của sinh vật tạo thành mùi hôi thối khó chịu.
Nhìn chung thực trạng môi trường biển Việt Nam hiện nay thiệt hại do thủy triều đỏ gây ra thật sự rất lớn. Vùng biển ven bờ phát hiện từ 8 – 16 loài vi tảo biển gây hại với mật độ hơn 2 x 104 tế bào/lít. Còn riêng hiện tượng thủy triều đỏ xảy ra tại biển Bình Thuận đã tiêu diệt mất cua, cá, tôm, san hô và rong cỏ biển rất nhiều.
Ảnh hưởng đến sức khỏe và đời sống
Những tác động nặng nề từ môi trường biển bị ô nhiễm gây ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe của mọi người. Những sinh vật sống dưới biển khi tiếp xúc với nguồn nước bị ô nhiễm chất hóa học, chất phóng xạ sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe của con người khi sử dụng nguồn thực phẩm này.
Ngoài ra những người ngư dân đánh bắt thủy hải sản cũng sẽ bị tác động lớn khi nguồn nước biển bị ô nhiễm. Lượng thủy hải sản không còn sẽ ảnh hưởng đến đời sống, kinh tế của người dân, mất đi công việc của hàng triệu người.
4, Biện pháp khắc phục và bảo vệ môi trường biển
Nâng cao ý thức trong việc bảo vệ môi trường biển đối với mọi người
Để loại bỏ những hình ảnh môi trường bị ô nhiễm, môi trường biển bị tác động thì cần phải thực hiện nghiêm túc các biện pháp bảo vệ môi trường. Mỗi người cần ý thức giữ gìn môi trường biển, không xã rác thải ra biển và tuyên truyền, thực hiện hoạt động dọn rác ven biển.
Cần thường xuyên cập nhật những tài liệu ô nhiễm môi trường biển và các giải pháp đối với những doanh nghiệp kinh doanh vận tải biển hoặc khai thác trên biển. Xử lý nghiêm những doanh nghiệp không thực hiện nghiêm túc khi xả chất thải ra biển.
Nghiêm cấm các hoạt động khai thác biển sử dụng chất nổ, chất hóa học. Phân bố khu vực khai thác thủy hải sản hợp lý cho người dân cũng như tuyên truyền bảo vệ các loài động vật, sinh vật có nguy cơ tuyệt chủng.
Trên đây là những thực trạng của môi trường biển tại Việt Nam hiện nay và các biện pháp bảo vệ môi trường biển. Mỗi người cần nâng cao ý thức trong việc bảo vệ môi trường biển cũng như có những giải pháp thiết thực giúp môi trường biển ngày càng trong sạch hơn, mang lại nguồn lợi ích to lớn hơn.
---------------------------------------------
Eco248.com - Siêu thị máy lọc nước Online lớn nhất Việt Nam - An tâm trọn đời !
Địa chỉ: Lô 11 ô DV 11 Tây Nam hồ Linh Đàm, Phường Hoàng Liệt, Quận Hoàng Mai, Hà Nội
Liên hệ mua hàng: 024.999.59.333
Hợp tác kinh doanh: 039.697.1236
Trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội ở nhiều quốc gia đã tạo ra nhiều áp lực đối với môi trường. Nước ta cũng không ngoại lệ khi đối mặt với tình trạng chất lượng môi trường ở nhiều nơi bị suy giảm mạnh, hệ sinh thái bị đe dọa nghiêm trọng. Có thể nói, thực trạng ô nhiễm môi trường tại Việt Nam hiện nay ở mức báo động.
Thực trạng môi trường biển ở Việt Nam hiện nay
Việt Nam là một trong những quốc gia có đường bờ biển dài từ Bắc đến Nam. Tuy nhiên thực trạng ô nhiễm môi trường biển ở Việt Nam hiện nay đang ở mức báo động. Tình trạng này xảy ra từ nhiều nguồn nguyên nhân khác nhau tạo nên những tác động lớn đến biển.
Theo những số liệu thống kê, hiện nay Việt Nam đang đứng thứ 4 trên thế giới về tình trạng ô nhiễm môi trường biển. Các chất thải, khai thác tài nguyên, rác thải nhựa đều đổ ra biển ngày một nhiều hơn khiến tình trạng này trở nên nghiêm trọng, đặc biệt là ô nhiễm rác thải nhựa.
Tại Việt Nam có đến hàng trăm con sông lớn nhỏ trải dài khắp đất nước và các con sông này đều đổ ra biển. Tình trạng ô nhiễm sông kéo theo những chất thải, rác thải đổ ra biển. Hiện tượng suy thoái môi trường biển đang đứng trước những thách thức vô cùng lớn.
Vấn đề ô nhiễm này tác động nặng nề đến môi trường sinh thái, đời sống sinh hoạt của mọi người, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của người dân cũng như gia tăng những áp lực lên môi trường nặng nề hơn, cản trở sự phát triển của nền kinh tế và cả xã hội.
2, Nguyên nhân gây nên ô nhiễm môi trường biển
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến ô nhiễm môi trường biển
Nguyên nhân ô nhiễm môi trường biển có thể xuất phát từ thiên nhiên. Dưới biển các hoạt động của núi lửa phun trào khiến cho các sinh vật biển chết hàng loạt. Điều này khiến cho môi trường biển bị ô nhiễm do những sinh vật này chết và bị phân hủy dưới nước.
Khi núi lửa phun trào, những bụi bẩn bốc lên cao và rơi xuống biển theo nước mưa. Điều này khiến cho nước biển nhiễm bẩn và tạo nên những biến đổi khiến cho môi trường biển bị ô nhiễm.
Khi triều cường dâng cao, nước tại các dòng sông cũng tăng lên và cuốn theo những rác thải từ môi trường sau đó tiếp tục trở về sông, cuối cùng đổ ra biển. Tình trạng này diễn ra liên tục khiến lượng rác thải ngày càng nhiều hơn gây ô nhiễm cho môi trường biển.
Có thể nói hình ảnh môi trường bị ô nhiễm chủ yếu đến từ con người. Những hoạt động của người dân sống gần khu vực ven biển thường xả nước thải sinh hoạt ra biển nên dẫn đến tình trạng ô nhiễm này.
Các hoạt động của tàu bè cũng là nguyên nhân khiến nước biển bị ô nhiễm. Các chất thải từ những tàu bè này xả trực tiếp ra biển hay ô nhiễm dầu trên biển cũng khiến cho nước biển bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Những hoạt động du lịch biển kéo theo nhiều du khách đến biển vui chơi, nghỉ dưỡng. Tuy nhiên điều này cũng gây nên những vấn đề cho môi trường biển khi số lượng rác thải ra biển tăng lên và một số người xả rác khiến nước biển không còn sạch.
Vấn đề khai thác dầu mỏ, cát, tài nguyên thiên nhiên trên biển cũng là nguyên nhân khiến cho biển ngày càng ô nhiễm hơn. Tình trạng khai thác quá mức gây nên những áp lực cho môi trường biển, đặc biệt là những chất thải rắn, nguy cơ tràn dầu.
Thực trạng môi trường biển Việt Nam hiện nay
Môi trường biển là gì là điều mà nhiều người thắc mắc. Môi trường biển là nơi sinh sống của hàng vạn sinh vật biển. Môi trường biển chiếm diện tích lớn trên toàn bộ trái đất và có vai trò không nhỏ đến sự sống của muôn loài.
Môi trường biển bao gồm toàn bộ phần nước biển trên trái đất. Tại mỗi quốc gia sẽ được phân định môi trường biển riêng biệt cho mình. Biển và môi trường biển mang đến nhiều nguồn lợi cho mọi người cũng như sự phát triển của xã hội.
Thực trạng ô nhiễm môi trường nước
Theo thống kê từ Bộ Y tế và Bộ Tài nguyên và Môi trường, mỗi năm nước ta có khoảng 9.000 người tử vong do sử dụng nguồn nước bị ô nhiễm. Trong đó có hơn 200.000 trường hợp phát hiện là do ung thư mà nguyên nhân là do sử dụng nguồn nước bị ô nhiễm. Hiện nay vẫn còn 20% hộ dân cả nước sử dụng nguồn nước bị ô nhiễm từ ao, hồ, kênh, rạch để sinh hoạt.
Tại hai thành phố lớn Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, đa phần nước thải sinh hoạt không được xử lý mà xả trực tiếp ra kênh, rạch sau đó chảy ra các con sông lớn là sông Hồng và sông Đồng Nai – Sài Gòn.
Bên cạnh đó, mức độ ô nhiễm nguồn nước từ các khu công nghiệp là rất đáng kể, chẳng hạn như tại cụm công nghiệp Tham Lương, TP. HCM, ước tính mỗi ngày có đến 500.000 m3/ngày tổng lượng nước thải từ các nhà máy dệt nhuộm, sản xuất bột giặt, sản xuất giấy, ….
Tại các vùng nông thôn, việc lạm dụng phân bón hóa học, thuốc trừ sâu cũng là tác nhân gây ô nhiễm nguồn nước. Lượng chất hóa học ngấm vào đất, gây ô nhiễm mạch nước ngầm.
Hệ lụy từ việc ô nhiễm môi trường
Nước ta đang hứng chịu tác động mạnh mẽ của biến đổi khí hậu toàn cầu, sự khắc nghiệt ngày càng gia tăng đối với Việt Nam khi tình trạng mưa bão trái mùa bất thường ngày càng thường xuyên hơn.
Nhiệt độ tăng cao trên toàn quốc, hạn hán kéo dài, nguồn nước ở các hệ thống sông lớn có xu hướng giảm mạnh, đặc biệt là tại sông Hồng và sông Mê Kông. Dòng chảy có xu hướng thấp đi nhưng lại chảy dữ dội hơn vào mùa lũ.
Việc ô nhiễm môi trường gây ra nhiều vấn đề về sức khỏe của con người như:
Có thể thẩy vấn đề ô nhiễm môi trường gây ra nhiều hệ lụy nghiêm trọng đến cuộc sống và sức khỏe, cần có những giải pháp để bảo vệ môi trường và khắc phục tình trạng ô nhiễm.
Có thể thấy, thực trạng ô nhiễm môi trường ở Việt Nam hiện nay rất nghiêm trọng và đến từ nhiều nguyên nhân như sự gia tăng dân số, quá trình công nghiệp hóa, ý thức của người dân về vấn đề môi trường chưa cao. Chính vì vậy, để cải thiện vấn đề này cần đẩy mạnh công tác giáo dục về môi trường cho toàn dân, giáo dục ý thức công dân, tăng cường chương trình giáo dục về bảo vệ môi trường cho các bé, đẩy mạnh việc xử phạt đối với tổ chức, cá nhân có hành vi gây ô nhiễm môi trường.
Có nhiều hành động để giúp bảo vệ môi trường, dưới đây là một số gợi ý cho bạn:
Như vậy có rất nhiều giải pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, tuy nhiên vấn đề chính vẫn là ở ý thức của mỗi người, mỗi chúng ta cần quan tâm đúng đắn hơn về việc môi trường sống ngày càng ô nhiễm.
Cảm ơn bạn đã dành thời gian theo dõi bài viết, mọi đóng góp về nội dung bạn có thể để lại bình luận bên dưới, Hợp Nhất sẵn sàng hỗ trợ bạn. Đừng quên theo dõi môi trường Hợp Nhất để cập nhật những thông tin mới.
Theo Báo cáo hiện trạng môi trường biển và hải đảo giai đoạn 2016-2020 của Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam (Bộ Tài nguyên và Môi trường), 28 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có biển có tổng dân số khoảng 51 triệu người, mật độ dân số là 354 người/km2, cao hơn trung bình cả nước 1,9 lần, tốc độ gia tăng dân số khoảng 0,91%/năm. Các hoạt động của con người dẫn đến gia tăng chất thải, ảnh hưởng đến môi trường các khu vực ven biển, các vùng biển và hải đảo.
Chất thải ảnh hưởng đến môi trường biển
Đi kèm với sự phát triển đô thị ven biển là sự gia tăng dân số, chủ yếu là sự gia tăng cơ học, các đô thị biển cũng thu hút khách du lịch dẫn đến gia tăng các nguồn thải, gây áp lực lên hạ tầng đô thị, đặc biệt là hệ thống cung cấp điện, nước, hệ thống xử lý chất thải... Do đặc thù du lịch ở nước ta có chu kỳ mùa vụ (du lịch biển chủ yếu tập trung vào mùa Hè), lượng du khách tập trung đông vào một thời điểm khiến quá tải hệ thống thu gom rác thải, nước thải... gây ô nhiễm môi trường.
Hoạt động du lịch và dịch vụ biển không chỉ gây áp lực lên hạ tầng đô thị mà còn tác động lên không gian của các đô thị ven biển. Chỉ tính riêng lượng chất thải phát sinh từ các tàu du lịch trên vịnh Bắc Bộ đã ở mức trung bình 11,3 kg rác thải/tàu/ngày đêm. Hiện nay, qua khảo sát các tàu du lịch biển trên vịnh Bắc Bộ cho thấy, có tới 77% số tàu thải chất thải trực tiếp ra vịnh, chỉ có 20% số tàu mang chất thải vào bờ để xử lý.
Sự gia tăng dân số, quá trình đô thị hóa ở các khu vực ven biển và những tác động của con người đối với môi trường được thể hiện rõ qua thống kê lượng nước thải sinh hoạt tại các đô thị ven biển. Ước tính, tại các khu vực ven biển, lượng nước thải phát sinh sẽ vào khoảng 122-163 triệu m3/ngày, đây là một sức ép lớn đến môi trường biển.
Nước thải sinh hoạt có chứa hàm lượng các chất hữu cơ, hợp chất chứa nitơ, chất rắn lơ lửng, các thành phần vô cơ, vi sinh vật, vi trùng gây bệnh khác... nếu không được quản lý, kiểm soát sẽ gây ảnh hưởng đến chất lượng môi trường nước biển ven bờ.
Tại huyện đảo Cô Tô (Quảng Ninh), theo ước tính, mỗi ngày lượng rác thải sinh hoạt phát sinh khoảng 8-10 tấn, chủ yếu là chất thải rắn sinh hoạt. Lượng rác thải thu gom trên huyện đảo này hiện mới đạt mức 6-8 tấn/ngày, trong đó phần lớn là rác thải sinh hoạt. Nguồn rác thải từ các hộ gia đình, chợ, khách sạn… được tập kết về bãi rác Voòng Xi, thuộc khu 4, thị trấn Cô Tô để chôn lấp. Tuy nhiên, số rác thải trên chủ yếu mới được thu gom tập trung ở các tuyến đường trung tâm thị trấn. Trong khi đó, một số khu vực như xã Thanh Lân, Đồng Tiến và các bãi biển có đông khách du lịch, việc thu gom rác thải lại rất hạn chế.
Tại huyện đảo Cát Bà (thành phố Hải Phòng), lượng chất thải chủ yếu tập trung từ hai nguồn là dân cư trên đảo và hoạt động du lịch. Trung bình mỗi ngày đảo Cát Bà phát sinh 58,6 m3 chất thải rắn các loại, thu gom được khoảng 40,74 m3 (chiếm 71%). Trong đó, rác thải phát sinh do hoạt động sinh hoạt, thương mại du lịch chiếm 80-85%; rác thải xây dựng, chế biến nuôi trồng thủy sản chiếm 10-13%, rác thải y tế khoảng 3-5%, các loại khác chiếm khoảng 0,7-1,2%.
Ngoài ra, một áp lực lớn khác đối với môi trường biển là tình trạng rác thải nhựa đại dương đang là vấn đề nóng trên toàn cầu, đặc biệt tại các quốc gia ven biển như Việt Nam. Chất thải nhựa đại dương trở thành mối nguy lớn cho môi trường biển bởi có số lượng lớn, đặc tính khó phân hủy trong môi trường biển và khả năng di chuyển xa. Tính trung bình, mỗi km2 mặt nước đại dương trên thế giới hiện nay chứa từ 13.000 đến 18.000 mẫu rác thải nhựa, 70% rác thải nhựa ở biển sẽ chìm xuống đáy biển và phá hoại các hoạt động sống ở đáy biển.
Sự gia tăng các nguồn thải từ lục địa, các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội đang đè nặng lên môi trường biển và hải đảo, cùng với sự biến đổi khí hậu, nước biển dâng ngày càng gia tăng, gây nhiều tổn thất to lớn về người, tài sản, cơ sở hạ tầng, các sự cố môi trường biển để lại hậu quả nặng nề.
Theo thống kê của Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam (Bộ Tài nguyên và Môi trường), chất thải hữu cơ là rác thải từ hoạt động công nghiệp tác động đáng kể đến môi trường biển, làm suy giảm chất lượng thủy sản và một số loài sinh vật biển khác, làm nước biển nhiễm độc, đặc biệt tại các vịnh và khu vực cửa sông nước ta. Tình trạng ô nhiễm chất hữu cơ, dầu mỡ đang diễn ra ở mức khá cao và vượt mức cho phép ở gần các khu du lịch, khu đông dân cư trải dài từ Bắc vào Nam, đặc biệt là vùng cửa sông tại các tỉnh, thành phố phía Bắc và dọc theo ven biển Đồng bằng sông Cửu Long.
Hoạt động khai thác khoáng sản biển, vận tải biển với quy mô khoảng 272 bến cảng biển đang hoạt động với tổng công suất trên 550 triệu tấn/năm. Ngoài nước thải có chứa dầu với khối lượng lớn, trung bình mỗi năm hoạt động này phát sinh khoảng 5.600 tấn rác thải dầu khí, trên 15.000 tấn dầu mỡ trôi nổi, trong đó 23-30% là chất thải rắn nguy hại chưa được xử lý.
Hoạt động nuôi trồng thủy sản làm tăng đáng kể lượng chất thải, chủ yếu là từ phân bón và thức ăn. Với tổng diện tích nuôi tôm là hơn 600.000 ha trên cả nước, hằng năm, gần 3 triệu tấn chất thải rắn thải ra môi trường.
Bên cạnh đó, tài nguyên thiên nhiên biển đang bị khai thác quá mức, thiếu tính bền vững. Cỏ biển trên toàn vùng biển nước ta từ Quảng Ninh đến Hà Tiên đã mất khoảng 40-60%; rừng ngập mặn mất đến 70% và khoảng 11% các rạn san hô bị phá hủy hoàn toàn, không có khả năng phục hồi. Thảm cỏ biển phân bố từ Bắc vào Nam và ven các đảo, ở độ sâu từ 0-20 m, hiện chỉ còn khoảng trên 5.583 ha. Tại một số khu vực như đảo Cát Bà (thành phố Hải Phòng), thành phố Hạ Long (Quảng Ninh), vùng biển tỉnh Quảng Nam…, thảm cỏ biển hầu như không có cơ hội để phục hồi tự nhiên do có quá nhiều tác động từ hoạt động du lịch, nuôi trồng thủy sản… Trong vòng 20 năm qua, Việt Nam đã mất 12% rạn san hô, 48% số rạn san hô khác đang trong tình trạng suy thoái nghiêm trọng, tập trung chủ yếu ở các vùng có đông dân cư như vịnh Hạ Long (Quảng Ninh), các tỉnh, thành phố ven biển miền Trung và một số đảo khác.
Các hệ sinh thái biển đang bị khai thác thiếu tính bền vững dẫn đến tình trạng suy giảm đa dạng sinh học. Đến nay, Sách đỏ Việt Nam và danh mục đỏ của Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên thế giới đã ghi nhận khoảng 100 loài sinh vật biển nước ta có nguy cơ đe dọa tuyệt chủng. Một kết quả nghiên cứu của Tổ chức Nông Lương Liên hợp quốc và một số tổ chức quốc tế khác cũng cho thấy, hơn 80% lượng cá trên các vùng biển ven bờ và ngoài khơi của Việt Nam đã bị khai thác. Trong đó, có đến 25% lượng cá bị khai thác quá mức hoặc khai thác cạn kiệt, sản lượng đánh bắt giảm đáng kể. Nhiều loài sinh vật biển khác đang đứng trước nguy cơ bị tuyệt chủng.
Theo thống kê chưa đầy đủ từ năm 1989 đến nay, cả nước có hơn 100 vụ tràn dầu do tai nạn hàng hải, tràn ra biển từ vài chục đến hàng trăm tấn dầu. Điển hình như sự cố tràn dầu tàu Formosa One xảy ra năm 2001 tại vịnh Gành Rái, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Do không tuân thủ chỉ dẫn của Cảng vụ Vũng Tàu, tàu Formosa One đã đâm vào tàu Petrolimex-01 làm tràn dầu khoảng 900 m3, tương đương 750 tấn dầu DO.
Năm 2019, tại khu vực sông Lòng Tàu, huyện Cần Giờ, TP Hồ Chí Minh đã xảy ra sự cố tràn dầu của tàu Vietsun chở 150 tấn dầu bị chìm, 150 m3 dầu FO và 20 m3 dầu DO từ tàu này đã gây ảnh hưởng trực tiếp đến khu vực rừng phòng hộ Cần Giờ và các khu vực nuôi trồng thủy sản. Ngoài ra, nhiều sự cố tràn dầu đã xảy ra như: sự cố tàu hàng 8.000 tấn chìm trên sông Lòng Tàu, huyện Cần Giờ, TP Hồ Chí Minh vào ngày 18/10/2019; sự cố chìm tàu Nordama Sophia của Thái Lan trên biển Hà Tĩnh ngày 28/11/2019 gây ra hiện tượng dầu vón cục trôi dạt trên bờ biển thuộc xã Kỳ Lợi, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh…
Ngoài các sự cố tràn dầu trên biển, tình trạng xả nước thải chưa qua xử lý xuống môi trường nước biển ven bờ đã gây hậu quả nghiêm. Điển hình là sự cố môi trường biển do Công ty Trách nhiệm hữu hạn gang thép Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh gây ra khiến hải sản chết bất thường tại một số tỉnh miền Trung, đặc biệt tại 4 tỉnh miền Trung là Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế xảy ra vào đầu tháng 4/2016, để lại hậu quả rất nghiêm trọng trên nhiều phương diện, lĩnh vực, gây thiệt hại lớn cho nền kinh tế đất nước.
Tiến sỹ Dư Văn Toán, Viện Nghiên cứu biển và hải đảo Việt Nam thuộc Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam cho biết, sự cố tràn dầu gây ảnh hướng xấu đến hệ sinh thái biển, đặc biệt là hệ sinh thái rừng ngập mặn, cỏ biển, vùng triều bãi cát, đàm phá và các rạn san hô. Ô nhiễm dầu làm giảm sức chống đỡ, tính linh hoạt và khả năng khôi phục của các hệ sinh thái. Khi cháy loang trên mặt nước, dầu tạo thành váng và bị biến đổi tính chất. Hàm lượng dầu trong nước tăng, các màng dầu làm giảm khả năng trao đổi ô-xy giữa không khí và nước, dầu tràn chứa độc tố làm tổn thương hệ sinh thái.
Bài cuối: Cơ hội và giải pháp bảo vệ môi trường biển